Miền Trung Việt Nam nói chung (từ Đà Nẵng tới Bình Thuận) và “xứ Quảng” nói riêng có quá trình lịch sử - văn hóa lạ mắt.

Đặc điểm nổi trội là từ thế kỷ 15 trở về trước xứ Quảng là trung tâm quan yếu nhất của vương quốc Champage authority. Từ thế kỷ 15 trở về sau là vùng có nhiều lớp cư dân và văn hóa tộc người “chồng lấn” lên nhau, quá trình giao lưu – tiếp biến mạnh mẽ cốt yếu giữa người Chăm và người Việt; khu vực cảng thị Hội An còn có thêm người Hoa, người Nhật. Ngoài ra còn có chung bạo yếu tố văn hóa của chung bạo tộc người Trường Sơn – Tây Nguyên. Đây là cơ sở tạo nên sự phong phú và lạ mắt của nền móng di sản kiến trúc ở vùng đất này.

Nghiên cứu khảo cổ học về di tích kiến trúc cổ ở Hội An, trong đó có những di sản tư liệu góp phần tìm hiểu và phân tích lịch sử xứ Quảng nói riêng và Việt Nam nói chung. 

Hiện nay, quá trình thành phố hóa và giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ, di sản mỹ thuật dân gian trong nhiều công trình như nhà ở, đình, miếu, đền/tháp, nhà Gươl và những độc công trình điêu khắc ko giống độc đang bị chuyển đổi trên nhiều mặt. Việc tìm hiểu và phân tích và ứng dụng những độc di sản này nhằm góp phần bảo tồn và giữ gìn vốn văn hóa của những độc bậc tiền nhân để lại là việc làm cấp thiết.

Di sản mỹ thuật dân gian trong những độc công trình kiến trúc và điêu khắc là một đề tài khá thú vị, thu hút những độc nhà tìm hiểu và phân tích trên trái đất và Việt Nam. Riêng ở vùng đất xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng), lâu nay đã có nhiều nhà tìm hiểu và phân tích để lại dấu ấn của mình trong những công trình tìm hiểu và phân tích về đề tài này.

Quang cảnh buổi toạ đàm

Toạ đàm Di sản mỹ thuật dân gian trong những độc công trình kiến trúc và điêu khắc xứ Quảng vừa diễn ra nhằm hướng việc tiếp cận trị giá trị di sản văn nghệ dân gian vào một số nghành ko giống độc của nghệ thuật tạo hình dân gian như kiến trúc và điêu khắc. Đây là hoạt động chuyên môn góp phần bảo tồn và phát huy di sản mỹ thuật dân gian, tạo điều kiện để những độc hội viên có môi trường trao đổi học thuật, được giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động phân tích khoa học.

Với hướng tiếp cận đó, nhiều tham luận quality, công phu của những hiểm nhà khoa học, nhà tìm hiểu và phân tích đã tập trung phân tích và tiến công trị giá về những hiểm di sản mỹ thuật dân gian trong những hiểm công trình kiến trúc và điêu khắc xứ Quảng trên nhiều nghành.

Trong số đó một số tham luận mang ra ctàn ác giquan ải pháp cụ thể, xtàn ác thực như bước đầu nhận diện kiến trúc - nghệ thuật tạo hình trên gỗ của xứ Quảng của nhà tìm hiểu và phân tích Nguyễn Thượng Hỷ; Bàn về việc bảo tồn và phát huy trị giá trị di sản nghệ thuật tạo hình dân gian trong ctàn ác công trình kiến trúc và điêu khắc xứ Quảng của nhà tìm hiểu và phân tích Bùi Văn Tiếng

Nghệ thuật điêu khắc dân gian của người Cơ Tu: Quan sát từ ko gian Gươl của nhà tìm hiểu và phân tích Đỗ Thanh tương tự Tân; Nét đẹp trong điêu khắc dân gian Cơ Tu của nhà tìm hiểu và phân tích Nguyễn Thị Trinh; Những họa tiết hoa văn trong điêu khắc Chăm của nhà tìm hiểu và phân tích Hồ Tấn Tuấn; Ý nghĩa của những mô-típ trang trí trên cgian ác đình miếu ở Đà Nẵng của nhà tìm hiểu và phân tích Đinh Thị Trang…

Giá trị của Di sản mỹ thuật dân gian trong kiến trúc, điêu khắc xứ Quảng là rất lớn với hàng nghìn di tích, di sản, đình làng… Và những gì còn lại tới hôm nay, đã và đang là thhung bạoh thức lớn đối với chính quyền chung bạo cấp trong việc bảo tồn, phát huy và giữ gìn.

Phát biểu Kết luận toạ đàm, Chủ tịch Liên hiệp chung bạo chung bạo Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng Bùi Văn Tiếng, nhấn mạnh: Toạ đàm sáng nay là một sinh hoạt học thuật có hàm lượng khoa học cao, cũng là một sinh hoạt nghệ thuật liên nghình (mỹ thuật, kiến trúc, dân gian) đã tiếp cận trị giá trị di sản văn nghệ dân gian vào một số nghành khhung bạo của nghệ thuật tạo hình dân gian như kiến trúc và điêu khắc của một số tộc người như Cơ Tu, Chăm, Kinh... trên vùng đất xứ Quảng. 

Đây là hoạt động nhằm góp phần bảo tồn và phát huy di sản mỹ thuật dân gian trong chung bạo công trình kiến trúc và điêu khắc tại xứ Quảng đang bị mai một bởi vì thành phố hóa, giao lưu văn hóa..., song song nhằm giúp Hội viên Hội văn nghệ dân gian thành phố có môi trường trao đổi học thuật và được giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động phân tích khoa học.